CHƯƠNG 8
HÀNH TRÌNH TRỐN SANG AI CẬP
Giữa đêm khuya, các Vị Lữ Khách thiên quốc rời khỏi Jerusalem dấn (rấn) bước lưu vong trong âm thầm tăm tối. Mẹ Maria và thánh Giuse lo lắng ngập lòng vì các Ngài đưa Kho Tàng thiên quốc đi vào miền đất lạ. Chính Chúa cho Mẹ và thánh dưỡng phụ cơ hội lo lắng để củng cố sức mạnh cho các ngài bằng đức tin và trông cậy. Mẹ Maria và thánh dưỡng phụ không biết những gì sẽ xảy ra suốt hành trình, cũng không biết khi nào chấm dứt. Các ngài cũng không biết làm cách nào sinh sống tại Ai Cập, nơi hoàn toàn xa lạ, cũng không biết có thể tìm được những tiện nghi gì tại đó để dưỡng nuôi Chúa Hài Đồng. Cấp thời nhất là Mẹ Maria và thánh Giuse không biết làm cách nào tránh cho Chúa Sơ Sinh những khổ cực tột độ dọc đường. Trái tim Mẹ và thánh dưỡng phụ đầy lo âu khắc khoải khi Thánh Gia từ nơi tạm trú vội vã ra đi. Nhưng nỗi đau buồn của Mẹ Maria và thánh Giuse được giảm nhẹ nhiều khi các thiên thần hộ vệ lại hiện ra với muôn vẻ rạng rỡ oai hùng biến bóng đêm thành ngày rực rỡ nhất cho các Vị Lữ Khách. Khi Thánh Gia rời khỏi cổng thành, các thiên thần sấp mình thờ lạy Ngôi Lời nhập thể trên cánh tay Đức Trinh Mẫu. Các thiên thần cũng khuyến khích Đức Hiền Mẫu, và cho biết thánh ý Thiên Chúa muốn các ngài hướng dẫn và hộ vệ Mẹ suốt hành trình.
Thánh Gia lưu lại thị trấn Gaza hai ngày; thánh Giuse và con lừa đỡ chân Mẹ đều mệt nhoài. Từ đây Mẹ Maria và thánh Giuse để người nô bộc của thánh Elisabeth trở về, căn dặn anh ta không được nói cho bất cứ ai biết Thánh Gia ở đâu. Nhưng Thiên Chúa còn dự liệu cẩn thận hơn chống lại mối nguy hiểm này, đã làm cho anh ta không nhớ chút gì về những điều thánh Giuse căn dặn phải giữ kín, do đó anh ta chỉ còn nhớ lời Mẹ Maria nhắn gởi bà Elisabeth. Đức Maria phân phát cho người nghèo khó các quà tặng do bà Elisabeth gởi tới. Mẹ dùng vải bà Elisabeth tặng để may áo choàng mặc ấm cho Chúa và thánh Giuse chống những rét lạnh của thời tiết khắc nghiệt trong cuộc hành trình. Mẹ cũng dùng những thứ khác thuộc sở hữu của Thánh Gia để làm cho Chúa Hài Đồng và thánh dưỡng phụ bớt cơ cực. Đức Trinh Mẫu không ỷ vào trợ giúp phép lạ khi nào Người có thể chu tất các nhu cầu hàng ngày bằng sự cần cù lao động, vì trong những vấn đề này Người muốn tuân theo trật tự tự nhiên và nỗ lực của chính mình. Trong hai ngày lưu lại thị trấn Gaza, Mẹ Maria đã thực hiện một vài việc kỳ diệu để ban muôn ơn phước cho thị trấn này. Mẹ cứu hai người khỏi chết, chữa nhiều người khỏi bệnh tật đau đớn. Mẹ làm cho một phụ nữ tứ chi bất toại sử dụng được tay chân như bình thường. Mẹ ban ơn siêu nhiên nhận biết Thiên Chúa, ơn thay đổi cuộc sống cho nhiều người gặp và nói chuyện với Mẹ. Tất cả những người này cảm thấy họ được thúc đẩy chúc tụng Đấng Tạo Hoá.
Đến ngày thứ ba, các Vị Lữ Khách của chúng ta rời khỏi thị trấn Gaza đi Ai Cập. Ngay sau khi rời khỏi xứ Palestine, Thánh Gia vượt qua sáu mươi dặm trên sa mạc Bersabe để tới ngụ cư tại Heliopolis, ngày nay là Cairo, Ai Cập. Hành trình băng sa mạc mất nhiều ngày, vì mỗi ngày Thánh Gia chỉ đi được một đoạn đường rất ngắn, không những chỉ vì bước đi cực khổ trên bãi cát lún sâu, mà cũng vì khổ cực do thời tiết khắc nghiệt mà không có chỗ trú ẩn. Để hiểu Mẹ Maria thánh Giuse và Chúa Hài Đồng chịu khổ cực chừng nào trong chuyến đi này, cần phải nhớ rằng Đấng Toàn Năng để cho Con Một vô cùng yêu dấu, cùng với Đức Hiền Mẫu và thánh dưỡng phụ phải chịu mọi thiếu thốn gian khổ đương nhiên xảy ra khi đi qua sa mạc. Suốt hành trình qua sa mạc, Thánh Gia chỉ có vòm trời, gió lộng, làm nơi trú qua đêm; hơn nữa, lúc đó là giữa mùa đông. Trong đêm thứ nhất nơi sa mạc toàn cát này, Thánh Gia nghỉ dưới chân một đồi cát nhỏ, nơi trú ẩn duy nhất Thánh Gia có thể tìm được. Đức Hiền Mẫu bồng Chúa Hài Đồng ngồi ngay trên bãi cát, ăn chút thực phẩm cùng với thánh phu quân. Mẹ Maria cũng cho Chúa Hài Đồng bú. Chúa Hài Đồng đã làm cho Đức Hiền Mẫu và thánh dưỡng phụ hoan hỉ bằng việc tỏ ra sự hài lòng của Chúa. Để cung cấp cho Chúa Hài Đồng và Đức Hiền Mẫu Maria thứ gì che sương gió, dù nhỏ bé khiêm tốn, thánh Giuse làm cái lều bằng chính áo choàng của ngài và vài cái que (gậy nhỏ, ngài đem theo) chống làm khung. Trong đêm đó, muôn ngàn thiên thần đã tạo thành hàng rào bảo vệ chung quanh Đức Vua và Đức Nữ Vương. Mẹ Maria thấy Con Thiên Chúa của Mẹ dâng lên Thiên Chúa Cha hằng hữu những khổ cực vất vả của chính Chúa, của Mẹ và thánh Giuse. Gần suốt đêm đó Mẹ Maria kết hợp trong lời cầu nguyện và các hành động khác của linh hồn cực thánh Chúa. Chúa Hài Đồng ngủ một chút trong cánh tay Mẹ, nhưng Mẹ Maria vẫn thức nói chuyện với Đấng Tối Cao và các thiên thần. Thánh Giuse ngồi ngủ trên cát, đầu gục xuống ngực, trước ngực ngài đeo túi y trang và các vật dụng khác.
Thánh Gia giong ruổi hành trình. Số trái cây, bánh và nước dự trữ ít ỏi đã sớm hết; Thánh Gia phải chịu thiếu thốn đói khát cùng cực. Cả Mẹ Maria và thánh Giuse đều cảm thấy tình trạng thiếu thốn này rất trầm trọng. Một trong những ngày đầu hành trình, các ngài không ăn uống chút gì cho tới khuya. Ít ngày sau, những thực phẩm sơ sài thanh đạm nhất cũng không còn. Bản chất tự nhiên đòi phải có chút gì giải khát sau những gian khổ mỏi mệt của chuyến đi. Vì không có cách nào tiếp tế nhu cầu của Thánh Gia bằng phương tiện tự nhiên, Đức Nữ Vương thiên đàng cầu cứu Đấng Tối Cao: “Lạy Thiên Chúa hằng hữu, cao cả và uy quyền, con cảm tạ chúc tụng Chúa vì lòng nhân từ đại lượng vô biên của Chúa. Không vì con xứng công gì mà chỉ nhờ lòng Chúa thương đoái nhìn, Chúa cho con mạng sống thân xác con, mặc dù con chỉ là bụi đất và thụ tạo vô dụng, con chưa đền đáp được xứng đáng vì các đặc ân này; làm sao con dám xin điều con không thể đền đáp? Nhưng, lạy Chúa và Cha của con, xin nhìn đến Con Một vô cùng yêu dấu Chúa mà ban cho con thứ cần thiết giữ mạng sống tự nhiên của con và phu quân con, để con có thể phụng sự Ngôi Lời làm người cứu độ nhân loại.”
Để những lời kêu nài của Đức Hiền Mẫu cực dịu hiền có thể thốt ra từ những đau khổ lớn lao hơn, thêm vào với đau khổ do vất vả cơ cực đói khát, Đấng Tối Cao còn để cho Thánh Gia chịu đau khổ hơn vào những dịp khác. Trận mưa bão nổi lên làm cho Thánh Gia khổ cực và mịt mù. Gian khổ này còn làm cho trái tim đầy yêu thương của Đức Hiền Mẫu sầu phiền hơn nữa vì thương Chúa Hài Đồng mới chưa được năm mươi ngày. Mặc dầu Mẹ Maria ủ bọc Chúa bằng hết khả năng, Mẹ đã không thể giữ cho Chúa không cảm thấy sự khắc nghiệt của thời tiết. Chúa khóc lệ đầm đìa run rẩy vì lạnh y như các trẻ nhỏ khác. Khi đó Đức Hiền Mẫu dùng quyền là Nữ Vương mọi tạo vật truyền cho mưa bão không được làm đau đớn Đấng Tạo Hoá của chúng, mà phải dâng lên Chúa nơi ở yên tĩnh, và trút mọi ác độc của chúng trên một mình Mẹ. Cũng như trong dịp Chúa giáng sinh và hành trình lên Jerusalem, lần nữa gió lập tức giảm cường độ, trận bão dịu đi, không dám tới gần Thánh Gia nữa. Để đáp lại lòng lo lắng yêu thương này, Chúa Hài Đồng Giêsu truyền cho các thiên thần giúp đỡ Đức Hiền Mẫu cực nhân từ và che Thánh Gia khỏi sự nghiệt ngã của thời tiết. Các thiên thần lập tức tuân lệnh tạo thành một bầu tròn đẹp rực rỡ bao quanh Thánh Gia. Việc này diễn ra nhiều lần suốt hành trình vượt sa mạc.
Thánh Gia cơ cực vì thiếu thốn lương thực và những thứ khác không thể nào có được theo khả năng loài người. Thiên Chúa để cho Thánh Gia rơi vào hoàn cảnh thiếu thốn này để khi nghe những lời cầu nguyện đáng chấp nhận của Người Yêu Dấu, Chúa có thể ban lương thực qua tay các thiên thần. Các thiên thần đem tới bánh ngon và trái cây đúng mùa, mà hơn cả là nước uống hết sức ngọt ngào do chính các thiên thần làm ra và dâng lên. Kế đó tất cả các thiên thần hát ca chúc tụng cảm tạ Chúa, Đấng ban lương thực cho muôn loài vào đúng thời điểm, để những người nghèo khó được no thoả (Tv 135:25) những người mà mắt và lòng trông cậy gắn chặt vào sự Quan Phòng và lòng đại lượng của Chúa. Đó là lương thực mỹ vị Chúa thiết đãi ba Vị Khách Lưu Vong trong sa mạc Bersabe (3 Vua 19:3), đây cũng là sa mạc mà khi chạy trốn Jezabel, tiên tri Elias được bổ dưỡng bằng bánh do thiên thần đem tới để ngài có thể đi tới núi Horeb.
Cuộc hành trình gian khổ kéo dài cho tới khi Thánh Gia tới thị trấn có người cư ngụ ở Ai Cập. Khi đi vào các thị trấn, Chúa Hài Đồng, ở trên tay Đức Hiền Mẫu, ngước nhìn và đưa hai tay lên Thiên Chúa Cha xin ơn cứu độ cho cư dân trong các thành đó bị Satan khống chế. Chúa Hài Đồng dùng quyền năng vô cùng xua đuổi quỉ ra khỏi các tượng thần và liệng chúng xuống hoả ngục. Cùng lúc đó các tượng thần nhào xuống đất vỡ nát, các bàn thờ vỡ ra từng mảnh, các đền thờ tà thần sụp đổ. Mẹ Maria biết rõ nguyên do những hiệu lực kỳ diệu này, vì Mẹ liên kết lời cầu nguyện của Mẹ với lời cầu nguyện của Con cực thánh trong tư cách là Đấng đồng công cứu chuộc nhân loại. Thánh Giuse cũng biết đây là việc Ngôi Lời nhập thể làm; ngài dâng lời chúc tụng tôn vinh Chúa. Nhưng lũ quỉ, mặc dầu chúng cảm thấy quyền lực Thiên Chúa, không biết quyền lực này phát xuất từ đâu.
Dân chúng Ai Cập, cả những người uyên bác, sửng sốt trước những việc xảy ra mà không thể giải thích. Từ ngày tiên tri Jeremia lưu trú ở Ai Cập tới nay vẫn còn lời truyền tụng rằng một Vị Vua người Do Thái sẽ tới và các đền thờ ngẫu thần sẽ bị hủy diệt. Mặc dầu có lời truyền tụng này, những người bình dân không biết chút gì, cả những học giả cũng không biết lời truyền tụng đó được thực hiện cách nào. Vì thế sự kinh hoàng lan tràn khắp nơi, như tiên tri Isaias đã báo trước (Is. 9:1). Giữa sự hỗn loạn sợ hãi này, một số người, suy nghĩ về các biến cố này, đã đến với những Vị Khách Lạ mới tới, họ cũng nói với các ngài về sự sụp đổ các đền thờ và tượng thần của họ. Nhân cơ hội này Đức Hiền Mẫu giải phóng những người này khỏi sự lừa dối; nói với họ về Thiên Chúa đích thực; dạy họ biết Thiên Chúa là Đấng Tạo Hoá duy nhất của cả trời đất, chỉ một mình Thiên Chúa phải được tôn thờ và nhìn nhận là Thiên Chúa. Các thần khác chỉ là tà thần dối trá, chỉ là gỗ, hoặc đất, hoặc kim loại được người ta làm ra, không có mắt nhìn, không tai nghe, cũng chẳng có quyền hành gì. Chính những người đã làm ra các tượng thần, hoặc bất cứ người nào khác, có thể tùy ý phá hủy các tượng đó. Những lời các tượng thần đó nói ra chỉ là những câu đối đáp ma quỉ dối trá lừa lọc nói qua các tượng đó; và cả ma quỉ cũng không có quyền năng gì, vì chỉ có một Thiên Chúa đích thực mà thôi.
Lời Mẹ Maria dịu dàng nhân từ, đồng thời cũng tràn đầy sức sống và uy lực. Gương mặt Mẹ Maria hết sức yêu kiều, các lời Mẹ nói được kèm theo những hiệu lực hết sức tốt lành. Tin tức loan truyền về việc hiện diện của các Vị Lữ Khách lạ lùng này mau chóng loan truyền khắp nhiều thị trấn. Nhiều người tụ lại để xem và nghe lời Mẹ Maria và thánh Giuse. Những lời cầu nguyện đầy uy lực của Ngôi Lời nhập thể đã làm thay đổi các trái tim, việc vỡ nát các tượng thần gây ra sự chấn động khó tin giữa những người này, cấy vào trí khôn họ sự hiểu biết về Thiên Chúa thực và lòng hối hận tội lỗi, nhưng không cho họ biết từ ai hoặc nhờ ai mà những hồng ân này đến với họ. Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh Giuse giong ruổi qua nhiều thị trấn Ai Cập, làm nhiều phép lạ khác nữa, xua đuổi ma quỉ không phải chỉ khỏi các tượng thần, mà còn xua đuổi chúng ra khỏi nhiều người bị chúng chiếm hữu, chữa nhiều người khỏi bệnh nguy kịch trầm trọng, soi sáng tâm trí người ta bằng các giáo lý về chân lý và cuộc sống vĩnh cửu. Do các ơn lành nhất thời này và các ân sủng khác, nhiều người tới nghe lời Mẹ Maria và thánh Giuse chỉ dạy về đời sống tốt lành hữu ích.
Ở nhiều nơi tại Ai Cập vẫn còn lưu truỵền các việc kỳ lạ Ngôi Lời nhập thể đã làm, gợi lên những khác biệt về ý kiến giữa các tác giả thần học và sử gia liên quan đến thị trấn, nơi các Vị Lữ Khách trú ngụ khi lưu vong tại Ai Cập. Một số người cho rằng Thánh Gia ngụ tại thị trấn này, người khác cho rằng ở thị trấn kia. Tuy vậy có thể tất cả các người đó đều đúng, vì mỗi người đó có thể nói tới một trong các giai đoạn khác nhau trong thời gian Thánh Gia ngụ tại Memphis, hoặc Babylon, hoặc Matarieh; vì Thánh Gia không phải chỉ ghé lại các thành phố này thôi, mà còn ghé lại nhiều nơi khác nữa. Tác giả được cho biết Thánh Gia đi qua các thành phố này rồi tới tạm cư tại Heliopolis, ngày nay là Cairo, thủ đô Ai cập. Các thiên thần hộ vệ nói cho Mẹ Maria và thánh Giuse biết Thánh Gia sẽ định cư tại Heliopolis. Ngoài những đổ nát của các đền thờ và các tượng thần xảy ra khi Thánh Gia tới thành phố này, cũng như tại những nơi khác, Chúa còn làm nhiều phép lạ khác nữa vì vinh quang Chúa và để cứu các linh hồn. Dân chúng tại Heliopolis (sự tốt phước của thành phố này đã được tiên báo trong tên của nó là “Thành phố Mặt Trời”) sẽ được thấy Mặt Trời Công Chính và ân sủng mọc lên chiếu sáng trên họ. Theo ý Chúa, thánh Giuse tìm mua một ngôi nhà nghèo nàn khiêm tốn làm nơi cư ngụ trong khu vực không xa thành phố, tuy nhiên thuận tiện, đúng như ý Mẹ Maria.
Mẹ Maria và thánh phu quân đã vui vẻ thích nghi với sự khó nghèo nơi căn nhà nhỏ bé của các ngài. Nhà này có ba phòng, Mẹ Maria và thánh Giuse dành một phòng làm thánh điện cho Chúa Hài Đồng dưới sự chăm sóc trìu mến của Đức Hiền Mẫu cực trinh khiết; trong đó đặt nôi Chúa nằm và chiếc giường mộc mạc gỗ trơn của Mẹ Maria. Mãi tới mấy ngày sau, do nỗ lực của thánh Giuse và nhờ lòng hảo tâm của các phụ nữ nhiệt thành, giường của Mẹ Maria mới có vải phủ. Một phòng dành làm nơi ngủ và cầu nguyện của thánh Giuse. Phòng thứ ba là xưởng mộc. Nhìn thấy tình trạng nghèo khó của Thánh Gia, hết sức chật vật khó kiếm đủ việc làm với nghề thợ mộc, Mẹ Maria quyết định trợ giúp thánh Giuse bằng thủ công để mưu sinh. Mẹ Maria tìm được việc thêu may nhờ sự giúp đỡ của các phụ nữ đạo đức.
Để có lương thực và y phục tối cần thiết, trang bị ngôi nhà dù hết sức khiêm tốn, trang trải các chi phí cần thiết, dường như Mẹ Maria phải làm việc suốt ngày và dành thời gian đêm cho việc cầu nguyện. Mẹ Maria quyết định việc này, không phải vì lý do lợi lộc, cũng không phải vì Mẹ không thể tiếp tục chiêm niệm ban ngày, vì Mẹ luôn làm việc trước sự hiện diện của Chúa Hài Đồng. Mẹ thường dành một số tiếng đồng hồ vào việc cầu nguyện đặc biệt. Mẹ muốn chuyển những giờ cầu nguyện đó sang ban đêm để có thêm thì giờ lao động, mà không phải xin hoặc trông chờ Thiên Chúa ban phép lạ trợ giúp cho bất cứ thứ gì Mẹ có thể tìm được do nỗ lực lao động. Mẹ Maria xin Thiên Chúa Cha hằng hữu ban trợ giúp cho Con cực thánh; nhưng đồng thời Mẹ tiếp tục lao động. Mẹ Maria liên kết lời cầu nguyện với lao động, để có được những thứ cần thiết cho cuộc sống.
Vì cái nóng dữ dội ở Ai Cập và nhiều bất ổn xảy ra trong dân chúng, tình trạng hỗn loạn đáng lo ngại lan tràn khắp nơi. Trong những năm Thánh Gia lưu lại Ai Cập, bệnh dịch tàn phá Heliopolis và nhiều nơi khác. Vì lời tường thuật về các việc lạ lùng của Thánh Gia, vô số người từ khắp Ai Cập đã đến với Thánh Gia và trở về nhà được chữa lành bệnh thể chất và linh hồn. Để hồng ân Chúa có thể tuôn ra dồi dào hơn nữa, để Thân Mẫu nhân từ của Chúa có thể có được sự trợ giúp trong các việc bác ái, Thiên Chúa đã truyền cho thánh Giuse giúp đỡ Mẹ Maria giảng dạy và chữa lành những người tật nguyền. Thánh Giuse được ban cho ơn soi sáng mới và quyền năng chữa lành bệnh. Mẹ Maria khởi sự dùng việc trợ lực của thánh Giuse vào năm thứ ba Thánh Gia ở Ai Cập. Thánh Giuse thường xuyên chỉ dạy, chữa lành bệnh cho nam giới, trong khi Mẹ Maria săn sóc các phụ nữ. Kết quả do việc lao động của Mẹ Maria và thánh Giuse nơi linh hồn người ta thiệt là khôn lường. Lòng nhân từ thương xót và hiệu lực bao la của lời Mẹ lôi kéo mọi người đến với Mẹ.
Sự khiêm tốn và thánh thiện của Mẹ đổ tràn đầy tâm hồn người ta lòng yêu mến nhiệt thành. Người ta dâng cho Mẹ Maria nhiều quà tặng và tài sản lớn lao, mong mỏi thấy Mẹ dùng những thứ đó, nhưng không bao giờ Mẹ nhận một thứ gì cho Mẹ, hoặc dành riêng để Mẹ sử dụng. Thánh Gia luôn tự túc mọi nhu cầu do sức lao động đôi bàn tay Mẹ và thánh Giuse. Đôi khi Mẹ nhận quà tặng để giúp người nghèo. Chỉ với ý niệm này mà đôi khi Mẹ Maria chịu nhường trước những lời nài nỉ trìu mến sốt sắng của các người nhiệt tâm. Ngay cả trường hợp đó, Mẹ Maria thường tặng lại cho họ những thứ do chính tay Mẹ làm ra. Từ những điều chúng tôi vừa mới kể, chúng ta có thể ước lượng được các phép lạ vĩ đại chừng nào và nhiều chừng nào đã được Thánh Gia làm trong bảy năm lưu vong tại Ai Cập và riêng tại Heliopolis.
Điều làm cho Mẹ Maria xúc động dâng lòng ngưỡng phục, yêu mến, chúc tụng lớn lao nhất lên Đấng Tối Cao là Thiên Chúa tỏ ra vô cùng đại lượng đối với các thánh Anh Hài. Mẹ biết rõ chẳng khác gì Mẹ hiện diện khi vô số hài nhi bị giết. Tất cả các hài nhi này, mặc dầu một vài bé chỉ mới được tám ngày, hai hoặc sáu tháng, không một hài nhi nào trên hai tuổi, đã sử dụng được lý trí, được ơn hiểu biết cao độ về Thiên Chúa, yêu mến, tin và trông cậy toàn hảo. Với các nhân đức này, các thánh Anh Hài thực hành nhiều hành động anh hùng về đức tin, tôn thờ, yêu mến Thiên Chúa; tôn kính, yêu mến cha mẹ. Các thánh Anh Hài cầu nguyện cho cha mẹ mình, xin được cho họ ơn soi sáng và thăng tiến trong việc thiêng liêng. Các thánh Anh Hài sẵn lòng chịu tử đạo, mặc dầu tuổi ấu thơ, làm cho những đau khổ của mình trở nên hết sức vĩ đại và tăng thêm công nghiệp. Muôn vàn thiên thần đưa linh hồn các thánh Anh Hài xuống lâm bô. Khi tới nơi, các thánh sơ sinh này làm cho các thánh tổ hân hoan, làm cho các ngài tin tưởng hơn, hy vọng ngày giải phóng mau tới. Tất cả những việc này là hiệu lực của lời cầu nguyện của Chúa Hài Đồng và Đức Hiền Mẫu. Vì biết mọi việc kỳ diệu này, Mẹ Maria cháy lửa yêu mến nhiệt thành đã kêu lên: “Hỡi các con, hãy chúc tụng Chúa”. Hợp với các thánh Anh Hài, Mẹ chúc tụng Đấng là tác giả các kỳ công này, hết sức xứng hợp với Lòng Nhân Từ và Quyền Năng Vô Cùng của Chúa.
LỜI MẸ MARIA
Con của Mẹ, trong những điều con đã viết, Mẹ ước mong con học được từ chính sự lo buồn và sợ hãi mà với các điều đó con thi hành nhiệm vụ này. Con phải phiền sầu khi thấy một thụ tạo cao quí như loài người, được tạo dựng giống hình ảnh Chúa, được phú cho các tính chất linh thiêng cao quí, được ban cho khả năng hiểu biết, yêu thương, chiêm ngưỡng và vui hưởng Thiên Chúa hằng hữu, lại có thể tự để cho mình bị hạ giá, bị ô uế vì những tham vọng ác độc ghê tởm đến mức làm đổ máu các hài nhi vô tội. Con phải khóc vì sự suy vong của rất nhiều linh hồn, đặc biệt trong thời đại con sống, khi cũng tham vọng, đã xúi giục Herode, lại gây ra lòng ghen ghét thù hận lớn lao giữa con cái Giáo Hội, gây ra việc hư mất của vô số linh hồn, làm hư phí máu cực châu báu Con cực thánh Mẹ đổ ra để cứu chuộc nhân loại. Con hãy cay đắng phàn nàn về việc hư mất này.
Tuy nhiên con phải cảnh giác bởi những điều con đã thấy nơi người khác. Con hãy cân nhắc những hiệu lực của tham vọng thấm nhập các trái tim. Một khi tham vọng làm chủ trái tim, chúng sẽ đốt cháy trái tim bằng ham muốn khát vọng muốn đạt được kết quả, hoặc làm cho trái tim ngút lửa hận thù khi đối đầu với bất cứ chống đối nào. Con của Mẹ, con phải sợ hãi điều nguy hiểm này, không phải chỉ vì các kết quả con thấy nơi cao vọng của Herode, nhưng cũng vì những điều con thấy xảy ra từng giờ phút nơi người khác. Con phải cẩn trọng không để con bị bất cứ thứ gì, dù nhỏ mọn đến đâu, làm chủ con, vì chỉ một tia lửa nhỏ đủ để gây ra một đám cháy lớn. Mẹ vẫn thường nhắc lại với con cũng lời cảnh cáo này, Mẹ sẽ năng nhắc lại nữa cho con trong tương lai, vì khó khăn lớn lao nhất trong việc thực hành thánh đức là chết đi đối với tất cả những thứ gì làm thỏa mãn ngũ quan. Con không thể là dụng cụ thích hợp trong tay Chúa như Ngài muốn nếu con không tẩy sạch mọi quan năng của con khỏi hình ảnh mọi thụ tạo, để chúng không thể tìm được lối vào các ước vọng của con. Mẹ muốn cho con một luật không lay chuyển là, ngoài Thiên Chúa, tất cả mọi thứ, kể cả các thiên thần các thánh, phải như là không hiện hữu đối với con. Chúa đã mở cho con các bí mật thiên đàng, làm vinh hạnh cho con bằng sự thân mật yêu thương của Ngài, vì mục đích này Mẹ cũng làm vinh danh con với lòng yêu thương thân thiết của Mẹ, để con không sống cũng không muốn sống nếu không có Chúa. |